THE EMPEROR OF ALL MALADIES [A Biography Of Cancer] – SIDDHARTHA MUKHERJEE
Giới thiệu tác giả
Siddhartha Mukherjee, một bác sỹ người Mỹ gốc Ấn Độ, đồng thời là một nhà khoa học danh tiếng và tác giả của nhiều cuốn sách. Ông tốt nghiệp tại Stanford, Oxford, Harvard và viết bài cho nhiều tạp chí hàng đầu như “New York Times”, “Nature”, “The New England Journal of Medicine”, “New Republic”, …
Giới thiệu chung
Đây là một cuốn sách phổ cập khoa học không chỉ có chiều sâu và chi tiết, đồng thời mang đậm sắc thái nhân văn không hề khô khan nhàm chán. Đây cũng là một tác phẩm mang tính chất sử thi có góc nhìn toàn diện từ vĩ mô đến vi mô đối với bệnh ung thư.
Trong cuốn sách này tác giả sử dụng hành văn sinh động để mô tả những nhân vật và sự kiện tiêu biểu trong lịch sử phòng chống bệnh ung thư của loài người, đó là quá trình chúng ta từ mày mò tìm hiểu đến nhận thức căn nguyên bệnh tật rồi phòng và chống bệnh, ngoài ra còn đề cập đến tầm nhìn của cuộc chiến với ung thư trong tương lai.
Nội dung chính
Chúng ta sẽ đi theo bốn câu hỏi lớn để tìm hiểu nội dung của cuốn sách này:
- Bệnh ung thư là gì?
- Tại sao chúng ta lại mắc bệnh ung thư?
- Trước đây chúng ta chiến đấu chống lại ung thư như thế nào?
- Chúng ta có thể chiến thắng bệnh ung thư không?
Bản quyền
Bản dịch này chỉ nhằm giúp đỡ bệnh nhân và người nhà tìm hiểu về ung thư, không sử dụng vì mục đích thương mại. Hãy tôn trọng bản quyền của tác giả cuốn sách.
Lời nói đầu
Nhắc đến ung thư thường chúng ta sẽ liên tưởng đến “bệnh nan y”, “không chữa được” vv nhưng thực ra bệnh ung thư có liên hệ mật thiết với “sinh mệnh” của mỗi người. Tại sao lại như thế? Đó là vì kèm theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chúng ta phát hiện ra rằng nguyên nhân căn bản của bệnh ung thư là do đột biến gen. Nói cách khác, ung thư là lỗi được viết sẵn trong bộ gen của loài người, là kết quả của quá trình tiến hóa. Do vậy, khi chúng ta phải nhìn nhận ung thư là một phần của sinh mệnh, đi sâu tìm hiểu lịch sử của chứng bệnh này, cũng chính là tìm hiểu về bí ẩn của sự sống.
Tác giả Susan Sontag trong tác phẩm “Illness as Metaphor and AIDS and Its Metaphors” của bà đã viết, mỗi người có hai thân phận tồn tại song song, trong đó bệnh tật là thân phận phiền phức hơn cả. Khi chúng ta mắc bệnh, trở thành một công dân của vương quôc bệnh tật, thì ngoài chịu đựng nỗi đau đớn về thể xác còn phải chịu đựng gánh nặng về tinh thần cũng như những ánh mắt kỳ thị trong xã hội. Siddhartha Mukherjee, tác giả của cuốn sách này, là một bác sỹ ung bướu, ông đã ghi lại lời của một người bệnh như sau: “Tôi sẵn sàng tiếp tục điều trị, tuy nhiên, tôi muốn biết kẻ thù mà tôi đang đối đầu là gì.”
Để trả lời câu hỏi của bệnh nhân trên cũng như thắc mắc của rất nhiều những bệnh nhân ung thư khác, tác giả Mukherjee đã bỏ ra khoảng thời gian 6 năm để tiến hành tổng hợp và sắp xếp các kiến thức toàn diện về bệnh ung thư, cuối cùng hoàn thành cuốn sách này. Qua sách, bạn đọc sẽ biết được rằng bệnh ung thư đã tồn tại rất lâu từ trước khi loài người xuất hiện, còn chúng ta chỉ mới đi sâu tìm hiểu về bệnh này trong khoảng mấy chục năm trở lại đây. Khi tìm hiểu về quá trình lịch sử hàng nghìn năm này bạn sẽ thấy được loài người đã từng nhiều lần tìm cách chống lại ung thư, hy sinh biết bao sinh mạng trong quá trình đó, để kẻ thù truyền kiếp này từ một chứng bệnh nan y dần trở thành một vấn đề y học mà cả nhân loại cùng nhau đối mặt. Cũng từ quá trình đó chúng ta sẽ có nhận thức rõ ràng hơn đối với hai mệnh đề quan trọng bậc nhất của loài người: tiến hóa và sinh mệnh.
Cuốn sách “Ung thư – Vua của các loại bệnh” không chỉ giành giải Pulitzer năm 2011, đây được coi là giải Nobel trong ngành báo chí, mà còn được tạp chí Time của Mỹ liệt vào danh sách 100 tác phẩm tiếng Anh quan trọng nhất từ năm 1923 trở lại đây. Ngoài ra tác giả Siddhartha Mukherjee còn có hai cuốn Best seller khác về y học đó là “The Gene: An Intimate History” và “The Laws of Medicine: Field Notes from an Uncertain Science”.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung cuốn sách này bằng cách trả lời bốn câu hỏi: Bệnh ung thư là gì? Tại sao chúng ta lại mắc bệnh ung thư? Trước đây chúng ta chiến đấu chống lại ung thư như thế nào? Chúng ta có thể chiến thắng bệnh ung thư không?
- Bệnh ung thư là gì?
Như chúng ta đã đề cập ở trên, lịch sử của bệnh ung thư dài hơn nhiều so với tưởng tượng của chúng ta. Từ thời người tiền cổ Paranthropus hơn 200.000 năm trước đến nay, bệnh ung thư luôn đi kèm với sự tiến hóa của cơ thể loài người và tiến trình của văn minh nhân loại. Loài người đã bỏ ra hàng nghìn năm, tìm tòi từ nhiều góc độ để tìm hiểu kẻ thù đáng sợ này. Ngày nay, chúng ta biết rằng ung thư là tên gọi chung của của các loại u ác tính. Ung thư không phải là một loại bệnh cụ thể mà là một dạng bệnh rất phức tạp, gồm nhiều thuộc tính không đồng nhất như độ tuổi phát bệnh, vị trí bị bệnh, mức độ nghêm trọng và hiệu quả điều trị. Chúng ta gọi chung những bệnh tật đó là ung thư vì chúng có một điểm chung, đó là các tế bào ung thư phát triển mang tính bệnh học một cách bất thường, không chịu kiểm soát, dị hình. Các nhà khoa học đã từng lấy một mẫu tế bào ung thư từ cơ thể một bệnh nhân ung thư vòm họng tại Mỹ, mẫu tế bào này đã được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm hơn 70 năm nhưng vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng, không hề có dấu hiệu lão hóa hay tử vong. Phương thức sinh trưởng nhanh chóng và mất kiểm soát như vậy từ một khía cạnh khác khiến tế bào ung thư đạt được mục đích trường sinh trước loài người chúng ta.
Những nhận thức cặn cẽ của nhân loại đối với bệnh ung thư mới chỉ xuất hiên trong mấy chục năm trở lại đây. Trong giai đoạn đầu, chúng ta gần như không nhận thấy sự tồn tại của ung thư. Các nhà khoa học đã tìm thấy được dấu vết của ung bướu trên hóa thạch khủng long từ kỷ Jura, điều này chứng minh ung thư đã tồn tại trước khi loài người xuất hiện. Để tìm hiểu nhận thức nguyên thủy nhất của loài người đối với ung thư chúng ta có thể bắt đầu từ chữ ung thư trong tiếng Anh “cancer” . Từ này bắt nguồn từ ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa là “con cua”, đó là do ung thư khi phát triển sẽ có mạch máu và các tổ chức phát triển như rễ cây lan ra xung quanh, dễ liên tưởng đến hình ảnh con cua đang giương oai diễu võ (hãy tham khảo hình bìa sách). Ngoài ra, từ “ung thư học – oncology” cũng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, xuất phát từ chữ “gánh nặng”, từ này trên sân khấu kịch Hy Lạp được dùng để chỉ một loại mặt nạ đại diện cho nhân vật bị kịch, loại mặt nạ này đại diện cho áp lực tâm lý nặng nề mà nhân vật phải chịu đựng.
Ung thư lần đầu tiên xuất hiện trên ghi chép lịch sử của loài người là khoảng 4600 năm trước, trong bản ghi chép của thầy thuốc nổi tiếng thời Ai Cập cổ Imhotep. Tài liệu này đã nhắc đến một trường hợp bệnh nhân có khối u ở vùng ngực, khi ghi lại phương pháp điều trị cho bệnh nhân này Imhotep chỉ viết “không chữa được”. Trường hợp tương tự xuất hiện vào khoảng 2000 năm sau đó, nhà lịch sử học thời Hy lạp cổ Herodotos đã ghi lại trong tác phẩm của mình về trường hợp của hoàng hậu Atossa vợ của vua Darius, đế quốc Ba Tư, khi phát hiện trên ngực mình có một khối u chảy máu, cách chữa bệnh của bà rất “dã man”, bà ra lệnh cho một nô lệ của mình cắt phăng khối u đó.
Nội dung chủ yếu của phần này là về lịch sử của bệnh ung thư, đây là một trong những loại bệnh lâu đời nhất trong lịch sử loài người. Ung thư có một điểm chung là các tế bào ung thư phát triển mang tính bệnh học một cách bất thường, không chịu kiểm soát, dị hình. Ung thư trong quá trình phát triển vô tận của nó không chỉ chiếm đoạt hết chất dinh dưỡng của cơ thể mà còn mang đến áp lực nặng nề về tâm lý cho người bệnh. Có thể kết luận rằng ung thư là kết quả từ quá trình tiến hóa của loài người và sự chọn lọc của tự nhiên.
- Tại sao chúng ta lại mắc bệnh ung thư?
Có thể đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm nhất. Chúng ta mắc bệnh ung thư là vì đột biến gen.
Trong điều kiện thông thường, tế bào cơ thể người mỗi lần nhân đôi sẽ có khả năng xuất hiện một số đột biến. Khi chúng ta ngày càng già đi, những đột biến này sẽ được tích lũy theo những lần nhân đôi của tế bào, cho đến một ngày những đột biến này sẽ khiến tế bào thông thường trở thành tế bào ung thư. Loại tế bào này về mặt di truyền rất không ổn định, sau mỗi lần nhân đôi lại sẽ xuất hiện nhiều đột biến mới, chính những đột biến này có thể đem đến cho tế bào ung thư khả năng vận động, dẫn đến ung thư di căn; hoặc sẽ đem đến khả năng kháng thuốc, khiến cho ung thư sau khi kết thúc liệu trình điều trị lại tái phát; hoặc có thể đem đến khả năng phát triển mạnh khiến khối u đột nhiên to lên nhanh chóng. Những đột biến này không ngừng lặp lại khiến tế bào ung thư có thể không ngừng hoàn thiện, nâng cấp bản thân, đem lại khả năng sinh tồn ngày càng mạnh mẽ.
Lý luận về đột biến gen gây ra ung thư là lý luận đầu tiên trong lịch sử mang tính toàn diện và thuyết phục cao. Không chỉ thế, lý luận này còn giúp chúng ta có nhận thức hoàn toàn mới về bệnh ung thư. Chúng ta nhận ra rằng, ung thư không phải là do tác nhân bên ngoài xâm nhập vào cơ thể gây ra mà nó tấn công chúng ta ngay từ bên trong. Bạn có thể tưởng tượng ung thư giống như quái vật chui ra từ cơ thể vật chủ trong phim “Dị hình”, nó là một kẻ theo chủ nghĩa cá nhân cực độ, ích kỷ bất chấp tất cả vì lợi ích của mình, dùng mọi thủ đoạn, bất chấp quy tắc, dồn kẻ khác vào đường cùng để tồn tại. Nếu theo Darwin loài người là thành quả cuối cùng của quá trình chọn lọc tự nhiên, thì từ một khía cạnh khác ung thư là một dạng sinh mệnh còn cao cấp hơn.
Muốn tìm hiểu về một dạng sinh mệnh cao cấp hơn chính mình là một quá trình cực kỳ khó khăn, chúng ta đã không ít lần đi nhầm đường. Ví dụ, từ 2 thế kỷ trước công nguyên đến hơn 1500 năm sau đó, con người cho rằng ung thư là do một chất “mật đen” có hại gây ra, chất này tích tụ trong cơ thể không có chỗ thoát nên kết thành ung bướu. Đáng chú ý ở đây, các bác sỹ thời La Mã còn cho rằng bệnh trầm cảm cũng là do chất “mật đen” này gây ra, có lẽ người thời đó cho rằng ung thư xuất hiện cũng là do yếu tố tâm lý ảnh hưởng. Thật ra hiện nay vẫn có rất nhiều người cho rằng trạng thái tinh thần và các yếu tố tâm lý có những mối quan hệ mật thiết với bệnh ung thư. Ví dụ, những người hay có trạng thái tâm lý tiêu cực như dễ bị trầm cảm, áp lực, chán nản, giận hờn vv bị gọi là tính cách ung thư; người bệnh ung thư trước khi mắc bệnh cũng thường gặp phải những cú sốc tâm lý mạnh. Hiện chúng ta biết được rằng những tác nhân tâm lý không trực tiếp gây ra bệnh ung thư, tuy nhiên trạng thái tâm lý bất ổn và tiêu cực trong thời gian dài sẽ kích thích hệ thần kinh nội tiết làm ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, mà việc hệ miễn dịch suy yếu lại có mối quan hệ mật thiết đến sự hình thành và phát triển của ung thư.
Nhà tư tưởng người Pháp Rousseau đã nói: “Văn minh khiến cho loài người xa rời tự nhiên và những bệnh tật thường gặp chính là cái giá mà ta phải trả”. Câu nói này chính là cách nhìn của rất nhiều người sau quá trình công nghiệp hóa đối với nguyên nhân gây ra ung thư. Họ cho rằng, những ảnh hưởng tiêu cực của công nghiệp hóa đến môi trường, đến lối sống của nhân loại về một mặt nào đó đã kích thích sự phát triển của ung thư. Chúng ta rất khó để phủ nhận cách nghĩ này. Tại nước Anh trong cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18, khắp nơi đều là công xưởng và ống khói, những người công nhân thường xuyên phải cởi trần chui vào trong những ống khói này để làm vệ sinh, những người này thường mắc phải bệnh có tên là ung thư khói bụi, bệnh này rất hiếm khi xuất hiện ở những ngành nghề khác. Một ví dụ khác, cuối thế kỷ 19 đến thập niên 50 của thế kỷ 20, lượng tiêu thụ thuốc lá tại Mỹ tăng vọt, đồng thời với đó là tỷ lệ ung thư phổi cũng tăng lên trông thấy. Trong những ca bệnh ung thư nổi tiếng khác chúng ta cũng dễ thấy mối quan hệ giữa lối sống và bệnh tật, ví dụ, thường xuyên hít thở không khí ô nhiễm dễ dẫn đến ung thư phổi, hay ăn trầu dễ dẫn đến ung thư vòm họng, những công nhân thường phải tiếp xúc với hóa chất dễ mắc bệnh máu trắng, vv…
Đến đây thiết nghĩ chúng ta cũng cần phải tìm hiểu sơ lược về nguyên nhân bùng phát bệnh ung thư trong thế kỷ 20. Ở Mỹ, đến năm 1900, ung thư vẫn còn xếp sau các bệnh truyền nhiễm như lao, viêm phổi, sốt rét, vv… chỉ đứng thứ 7 về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên chỉ 40 năm sau, ung thư đã vượt lên vị trí thứ 2, chỉ xếp sau bệnh tim mạch. Vậy nguyên do dẫn đến điều này là do đâu? Một mặt, từ mấy nghìn năm trước đây chúng ta nhìn nhận về bệnh ung thư không chính xác, ghi chép trong lịch sử tương đối ít; mặt khác, ba cải biến lớn của nhân loại trong thế kỷ 20 cũng khiến cho ung thư bùng phát.
- Thứ nhất, tuổi thọ của con người đang tăng lên. Ung thư là một loại bệnh liên quan tới tuổi tác, tuổi càng cao tỷ lệ phát bệnh càng cao. Ví dụ, tỷ lệ ung thư vú của nữ dưới 30 tuổi là 1/400, nhưng đến năm 70 tuổi thì tỷ lệ này là 1/9. Sau khi bước vào thế kỷ 20, thuốc kháng sinh được sử dụng rộng rãi khiến cho tuổi thọ ước tính của người Mỹ tăng thêm 26 tuổi, số dân trên 60 tuổi tăng gần gấp đôi, mà sau 60 tuổi cũng là độ tuổi mà ung thư bắt đầu thể hiện uy lực của nó.
- Thứ hai, tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong ngành y khiến cho nhiều chứng ung thư trước đây không phát hiện được dần lộ ra trước ánh sáng.
- Thứ ba, là sự thay đổi về lối sống của nhân loại.
Tất nhiên, cũng có những chứng bệnh ung thư không liên quan đến cảm xúc cũng không liên quan đến các nhân tố của nền văn minh nhân loại. Ví dụ, tại khoa sản đôi khi xuất hiện những bệnh nhi vừa sinh ra đã mắc phải ung thư ác tính, bác sỹ ngoại khoa gặp phải những ca bệnh mà ba đời đều bị ung thư vú, vv Hoàng đế Napoleon cuối đời chết vì bệnh ung thư dạ dày, cha và một người chị của ông cũng mắc bệnh này; hai người chị khác, một người anh em và ông nội của ông cũng bị nghi là mắc ung thư dạ dày. Có người cho rằng những trường hợp bất hạnh này là trò đùa của số phận hay sai sót cả thượng đế, cũng có người quy đó vào báo ứng do tội lỗi từ kiếp trước; những người theo chủ nghĩa vô thần lại cho rằng, cũng giống những yếu tố ngoại hình như mắt hai mí hay “chân dài”, ung thư có thể di truyền. Ngoài ra, từ góc độ nguyên nhân gây bệnh thì rất nhiều virus có thể dẫn đến ung thư, mà virus có thể lây lan từ người sang người nên những bệnh ung thư như vậy cũng từng bị nhận định là bệnh lây.
Nói tóm lại, những yếu tố tâm lý, tinh thần, biến đổi về phương thức sống cũng như di truyền, hệ miễn dịch của cơ thể đều có thể là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư, tuy nhiên đột biến gen mới là nguyên nhân căn bản khiến ung thư xuất hiện và phát triển.
- Trước đây chúng ta chiến đấu chống lại ung thư như thế nào?
Tìm hiểu, nhận thức về ung thư là quá trình đan xen, gắn liền với cuộc chiến chống lại căn bệnh này. Trong một thời gian dài trước khi lý luận về đột biến gen xuất hiện, mọi người đều cho rằng ung thư là một loại bệnh do tác nhân bên ngoài xâm nhập vào cơ thể gây ra, xuất phát từ nhận thức này các bác sỹ đã dùng “lý luận máy móc” để đối kháng với bệnh tật, họ cực kỳ lạnh lùng coi cơ thể con người là một cỗ máy bằng xương bằng thịt đang chờ để cải tạo, sửa chữa chứ không phải là một thực thể sống.
Cuối thế kỷ 19, tại thành phố Newyork bác sỹ trẻ tài năng William Steward Halsted, đã phát minh ra phương pháp phẫu thuật cắt bỏ diện rộng để chữa trị ung thư vú. Trong phương pháp phẫu thuật này, bác sỹ sẽ cắt bỏ hoàn toàn phần vú, cơ ngực dưới vú, hạch dưới nách, xương quai xanh, hạch dưới xương quai xanh thậm chí cả một phần của xương sườn. Sau phẫu thuật, vai bệnh nhân sẽ lõm vào trong, cánh tay về sau không thể duỗi thẳng được nữa, thậm chí còn sưng to như chân voi, phải mất đến vài năm mới hoàn toàn hồi phục. Phương pháp này được ứng dụng trong thực tiễn chỉ dựa trên giả thuyết về nguyên lý điều trị mà chưa hề được chứng minh là có hiệu quả. Các nghiên cứu sau này đã chứng ming rằng, phương pháp nêu trên cũng có hiệu quả tương đương với chỉ cắt bỏ vùng vú và tuyến hạch dưới nách mà thôi.
Vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Cơ quan Nghiên cứu Quốc gia của Mỹ về ung thư tiến hành thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn phương pháp điều trị ung thư bằng hóa trị. Rất nhiều loại thuốc hóa trị liều lớn đã gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng cho người bệnh. Trong sách đã nhắc đến một trường hợp bé gái 11 tuổi mắc bệnh máu trắng, sau khi hóa trị đã rụng sạch tóc, tinh thần hoảng loạn, đi lại dật dờ trong hành lang bệnh viện, có lúc hét lên lanh lảnh. “Cô bé bị buộc chặt vào giường, thường nằm co quắp như con tôm, cơ bắp tiêu dần, tinh thần ngày càng kém đi.” Trong lúc chờ đợi liều thuốc giảm đau Moocphin tiếp theo cô bé tự cắn môi mình, để lại nhiều vết bầm vĩnh viễn trên môi. Đối với bệnh nhân, khát vọng sống khiến họ chấp nhận điều trị, mặc dù sau đó có khỏi bệnh thì quá trình điều trị cũng là thập tử nhất sinh; còn đối với bác sỹ mà nói để chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân những tác dụng phụ kèm theo là có thể chấp nhận được.
Tất nhiên chúng ta cũng cần biết rằng, vào thời điểm đó chính bản thân bệnh nhân ung thư vú còn viết thư cho bác sỹ, dùng lời lẽ tôn trọng và tha thiết mong bác sỹ đừng nương tay, họ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì cơ hội sống sót. Chính nhờ trong hơn trăm năm qua, tinh thần quyết tâm thử nghiệm, tìm tòi của bác sỹ và tinh thần vì khát vọng sống mà sẵn sàng hi sinh tất cả của bệnh nhân là nền tảng để những phương pháp điều trị hiệu quả nhất hôm nay xuất hiện.
Chiến trường của nhân loại với bệnh ung thư không chỉ ở trong phòng bệnh. Đầu thế kỷ XX, tỷ lệ mắc ung thư tại Mỹ tăng vọt tuy nhiên cho đến những năm 50 của thế kỷ XX nghiên cứu và các biện pháp điều trị ung thư gần như không tiến triển gì nhiều.
Trong giai đoạn đó, nước Mỹ vừa trải qua chiến tranh Thái Bình Dương và chiến tranh Triều Tiên nên cả nước đều lâm vào tình trạng thiếu kinh phí để nghiên cứu về ung thư. Với mong muốn thay đổi hiện trạng đó, nhà khoa học hàng đầu về ung bướu trẻ em Sidney Farber cho rằng cần xây dựng một “mặt trận chung” trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên ông cũng biết rằng mình không thể hoàn thành việc này một mình nên ông đã tìm cho mình đồng minh là nữ doanh nhân tiếng tăm đồng thời cũng là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng Mary Lasker. Hai tư tưởng lớn gặp nhau và nhanh chóng đi đến thống nhất, họ cùng bắt tay thúc đẩy kế hoạch chống ung thư trên toàn nước Mỹ và gọi đây là kế hoạch “Đặt chân lên mặt trăng” đối với bệnh ung thư. Bà Lasker đã dùng sức hút của bản thân cũng như mạng lưới quan hệ xã hội và trí tuệ trong kinh doanh của mình để thắp sáng ngọn lửa nhiệt tình trong toàn xã hội Mỹ làm dấy lên làn sóng chống ung thư toàn dân, biến việc chiến thắng ung thư trở thành một phần của giấc mơ Mỹ. Cuối cùng, hai ông bà đã bỏ ra 20 năm để khiến “đạo luật về chống ung thư quốc gia” được thông qua, đạo luật này khiến nghiên cứu ung thư có được nguồn kinh phí hàng trăm triệu USD hàng năm, từ đây, nghiên cứu về ung thư tại Mỹ chính thức tăng tốc.
Không chỉ có thế, những cố gắng của Sidney Farber và Mary Lasker thay đổi hoàn toàn diện mạo chính trị và xã hội của cuộc chiến chống ung thư. Năm 1964, Chính phủ Mỹ chính thức tuyên truyền cho công chúng về tác hại của hút thuốc và sự liên quan tới bệnh ung thư, từ đó về sau, các công ty thuốc lá liên tục phải chịu áp lực tiêu cực của dư luận, thậm chí thường xuyên bị kiện ra tòa. Dưới tác động của những bằng chứng khoa học, áp lực chính trị và tiến bộ về pháp luật đã khiến cho ngành thuốc lá tại Mỹ nhanh chóng đi xuống, lượng tiêu thụ thuốc là hàng năm giảm đi nhanh chóng, cùng với đó, tỷ lệ ung thư phổi của nam giới mỹ cũng giảm rõ rệt. Trong thực tế việc chống lại ung thư thông qua những phương pháp ngoài y học còn rất nhiều, giống như trường hợp của những người thợ vệ sinh ống khói nhà máy vào thế kỷ 18, sau khi nghị viện đưa ra pháp luật quản lý chặt lĩnh vực này tình trạng của họ được cải thiện rõ rệt, căn bệnh này cũng dần biến mất. Tuy nhiên rất đáng tiếc, vào năm 1973, một năm sau khi“đạo luật về chống ung thư quốc gia” ra đời Sidney Farber đã qua đời vì bệnh nhồi máu cơ tim ngay tại bàn làm việc của mình, trước đó vài tiếng ông vẫn đang tham gia thảo luận về tương lai của quỹ phòng chống ung thư và phương hướng của cuộc chiến chống căn bệnh này.
Từ sau những năm 80 của thế kỷ XX, những thành quả và tiến bộ của nghiên cứu cơ bản đã đem đến cho nhân loại cơ hội để tìm ra một loại thuốc đặc trị cho bệnh ung thư. Năm 1988, chuyên gia về ung bướu Dennis Slamon và đồng nghiệp tại đại học California của Mỹ đã nghiên cứu ra một loại kháng thể chống lại gen Her2, loại kháng thể này có thể chuyên môn tiêu diệt các tế bào ung thư mang gen đột biến Her2. Năm 1990, một bệnh nhân nữ 48 tuổi mắc bệnh ung thư vú, tế bào ung thư đã lan đến tuyến hạch. Tuy đã phẫu thuật cắt bỏ và trải qua 7 tháng hóa trị nhưng chỉ vài tháng sau tế bào ung thư lại tiếp tục di căn, bà đã từ chối tiếp tục hóa trị mà lựa chọn uống thuốc lá, thậm chí còn dự định đi du lịch xa. Bà đã thốt lên rằng: “tôi đến đường cùng rồi, tôi chấp nhận vận mệnh của mình.” Năm 1992, bà được tham gia vào thí nghiệm lâm sàng dùng kháng thể Her2, sau 18 tuần điều trị bà vẫn sống đến ngày nay. Bà nói, Dennis Slamon là người hùng của bà.
Loại thuốc điều trị định hướng đối với tế bào đột biến gen gây ung thư vú Her2 chính là thuốc Trastuzumab Injection nổi tiếng hiện nay. Trong 20 năm tiếp theo, nhiều loại thuốc điều trị các bệnh ung thư giai đoạn cuối và giữa dần dần được tìm ra, giúp nhân loại đối đầu với những bệnh ung thư như: máu trắng, ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư đại tràng, vv Ngoài ra các nhà khoa học còn tiếp tục phát triển thế hệ thứ 2 thậm chí là thế hệ thứ 3 của những loại thuốc điều trị đích này. Dạng thuốc này có thể tiêu diệt chính xác các tế bào ung thư, hiệu quả cao, tác dụng phụ thấp, có tác dụng điều trị tốt đối với nhiều bệnh ung thư kể cả ở giai đoạn giữa và cuối. Đến ngày nay, đây vẫn là mảng “hot” nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về ung thư.
Nói chung, chúng ta đã sử dụng nhiều biện pháp để điều trị ung thư như phẫu thuật, hóa liệu hoặc xạ trị nhưng đồng thời cũng để lại cho bệnh nhân nhiều tổn hại cả về sức khỏe lẫn tinh thần. Trong mô hình điều trị theo“lý luận máy móc” trước đây bác sỹ bỏ qua yếu tố đau đớn của người bệnh trong quá trình trị liệu. Từ sau những năm 80 của thế kỷ XX, các bác sỹ đã nghiên cứu ra thuốc điều trị định hướng gen trên cơ sở lý luận về đột biến gen gây ung thư. Loại thuốc này hiệu quả cao mà lại ít độc hại, hiện đang là mảng nóng nhất trong lĩnh vực nghiên cứu và điều trị ung thư. Ngoài ra, các yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế, vv cũng phát huy tác dụng quan trọng trong cuộc chiến chống lại ung thư, chỉ khi nào chúng ta tổng hòa được tất cả nguồn lực từ mọi mặt thì loài người mới có thể tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến với bệnh ung thư.
- Vậy chúng ta có thể chiến thắng bệnh ung thư không?
Đối với câu hỏi nêu trên sợ rằng đáp án là chúng ta có lẽ không hoàn toàn chiến thắng được.
Bước vào thế kỷ XXI, diện mạo của cuộc chiến chống ung thư tại Mỹ đã hoàn toàn thay đổi. Những bệnh ung thư chủ yếu như: ung thư phổi, ung thư vú, ung thu dạ dày, ung thu đại tràng vv đã được khống chế, tỷ lệ tử vong đều đang giảm xuống hàng năm, mà tốc độ đi xuống này rất đều đặn, ổn định và rõ rệt. Vậy đâu là lý do của hiện tượng này? Phẫu thuật, hóa trị, phong trào chống thuốc lá, phổ cập kiểm tra sàng lọc ung thư sớm đều là những tác nhân quan trọng của quá trình này. Chúng ta nên nhận thức rõ ràng rằng không có biện pháp phòng chống hay trị liệu nào có thể phát huy tác dụng một mình, cũng không có phương pháp nào là vô ích cả.
Chúng ta đang tiến bộ, nhưng điều đó không có nghĩa là nên quá lạc quan hay có những ảo tưởng về chiến thắng ung thư, ít nhất là trong tương lai gần. Hiện nay, trong lĩnh vực nghiên cứu về ung thư, chúng ta dường như vẫn đang hưởng thụ thành quả của thế kỷ trước. Gần 10 năm trở lại đây, mặc dù nghiên cứu của chúng ta tiến bộ thần tốc nhưng một lượng số liệu khổng lồ vẫn chưa được xử lý để chuyển hóa thành thành tựu ứng dụng được. Khoảng cách giữa nghiên cứu cơ bản và ứng dụng lâm sàng vẫn còn rất xa xôi.
Y học là một môn nghệ thuật của khoa học, mục đích của nó là cải thiện cuộc sống của nhân loại bằng cách tác động đến cơ thể con người. Mà cách ngành ung thư học can thiệp cơ thể người là thông qua bộ gen, mật mã của sinh mệnh, điều đó đồng nghĩa với việc con người rất khó hoàn toàn tách ung thư ra khỏi cơ thể mình, chúng ta có thể tìm cách tiêu diệt hoặc ngăn chặn các tác nhân gây bệnh bên ngoài nhưng nếu vấn đề đến từ chính cơ thể chúng ta thì câu chuyện lại hoàn toàn khác. Do vậy, vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là làm sao để cải thiện chất lượng cuộc sống? Mục tiêu của chúng ta có thể là ngăn chặn nguyên nhân tử vong đến từ ung thư trong quá trình lão hóa, thậm chí có thể biến ung thư trở thành thành bệnh mãn tính như tiểu đường, cao huyết áp. Đây có lẽ là cách hợp lý để chúng ta cùng chung sống với bệnh ung thư
- Tổng kết
Ung thư đã trở thành căn bệnh tiêu biểu của thế kỷ XX, điều này liên quan mật thiết đến việc con người sống ngày càng lâu hơn, y học ngày càng phát triển và sự biến đổi của lối sống hiện nay. Mặc dù tỷ lệ tử vong của bệnh ung thư đang giảm rất ổn định nhưng hiện chúng ta vẫn chưa có biện pháp thông dụng nào để điều trị ung thư, chúng ta chỉ có thể vận dụng tổng hòa nhiều phương pháp để kéo dài sinh mệnh, nâng cao chất lượng cuộc của người bệnh mà thôi. Hy vọng trong tương lai, bệnh ung thư sẽ trở thành một bệnh mãn tính như cao huyết áp, tiểu đường.
Thông qua việc nhìn lại lịch sử chống chọi bênh ung thư mấy nghìn năm qua, chúng ta có thể thấy được quá trình phát triển của sinh mệnh. Khởi đầu quá trình này chúng ta luôn muốn tống khứ ung thư ra khỏi thân thể mình nhưng rồi chúng ta phát hiện ra nguyên nhân chủ yếu của ung thư lại nằm chính trong bộ gen của mình, từ đây cách chúng ta nhìn nhận và ứng phó với ung thư cũng hoàn toàn thay đổi. Ung thư là một kết quả của quá trình tiến hóa, nó giống như cái bóng của chúng ta, mãi mãi là một phần của sự sống.
Trên đây là nội dung chính của cuốn sách“Ung thư – Vua của các loại bệnh”, rất hoan nghênh đọc giả tìm đến bản gốc của cuốn sách để tìm hiểu sâu hơn. Ngoài ra, do cuốn sách viết được viết từ gần 10 năm trước nên có một số nội dung chưa theo kịp với sự phát triển của thời đại, do vậy dịch giả xin phép bổ sung thêm một số thông tin bên lề để người đọc tiện theo dõi và đối chiếu.
- Bổ sung và cập nhật
- Về tỷ lệ tử vong của ung thư
Hiện nay, nỗi sợ đối với ung thư đang trở nên phổ biến trong xã hội Việt Nam. Kèm theo sự phát triển kinh tế nhanh chóng và quá trình công nghiệp hóa tại nước ta, những lo ngại về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng sức khỏe, tác nhân gây ung thư ngày càng được nhắc đến nhiều hơn. Đồng thời những tin đồn và thông tin không có căn cứ khoa học về bệnh ung thư cũng có thị trường để lan truyền rộng rãi.
Thực ra đây là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều nhân tố, ở đây dịch giả chỉ muốn đưa ra số liệu mới nhất do Tổ chức Y tế Thế giới WHO công bố về 10 nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới[1]. Trong báo cáo này, WHO chỉ ra rằng, trong năm 2016, 54% số ca tử vong là do 10 nguyên nhân hàng đầu gây ra, trong đó đứng đầu là nhồi máu cơ tim gây ra 15,2 triệu cái chết, sau đó là xuất huyết não, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh truyền nhiễm về hô hấp, bệnh Alzheimer và các bệnh tổn thương não tương tự, ung thư chỉ xếp thứ sáu, gây ra 1,7 triệu cái chết. Ngoài ra, số liệu mới hơn của các tổ chức khác cũng cho thấy xu hướng này chưa có nhiều biến đổi. Dẫn ra những số liệu này để chỉ ra rằng bệnh ung thư về bản chất khó điều trị nhưng hiện chưa phải là uy hiếp tử vong lớn nhất của loài người. Chúng ta nên chăng trong quá trình thúc tiến cuộc chiến chống ung thư cũng nên dành nhiều sự chú ý cho những vấn đề cấp thiết khác.
- Tình hình ung thư Việt Nam ở đâu trên bản đồ ung thư thế giới
Theo dữ liệu năm 2018[2] của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) trực thuộc WHO thuộc nhóm thứ 3 về tỷ lệ mắc ung thư trên thế giới. Tuy nhiên, cần chú ý rằng đây chỉ là xếp loại chung bởi tình hình phát bệnh, tỷ lệ tử vong trong ung thư chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố như: gen di truyền, vị trí phát bệnh, địa lý, khí hậu, phong tục tập quán, vv. Các nước có mức thu nhập bình quân hoặc chỉ số phát triển con người khác nhau cũng rất khác nhau. Tuy nhiên qua những số liệu này chúng ta có thể thấy Việt Nam không phải là nước có tỷ lệ mắc ung thư hàng đầu thế giới như mọi người thường nghĩ. Thậm chí những nước có mầu đậm trên bản đồ đều là các nước phát triển, đó là vì các nước này có tuổi thọ bình quân cao (năm bạn 80 tuổi tỉ lệ mắc ung thư cao gấp 50 lần năm 20 tuổi).
Ngoài ra bạn đọc cũng có thể theo các bản báo cáo về tình hình ung thư thế giới của IARC tại địa chỉ sau: https://www.iarc.fr/cards_page/world-cancer-report/ . Hiện phiên bản mới nhất là bản năm 2020.
- Về tiến triển của việc điều trị ung thư ở Việt Nam hiện nay
Hiện bệnh viện Bạch Mai đã đưa thuốc điều trị đích vào ứng dụng trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn[3], kéo dài thời gian sống thêm cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, đặc biệt ở các bệnh nhân thể trạng gầy yếu không điều trị hóa chất được, hoặc tác dụng phụ của hóa chất quá nặng nề và có được những thành quả rất tốt.
[1] https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/the-top-10-causes-of-death
[2] http://gco.iarc.fr/today/online-analysis-map
[3] http://ungthubachmai.vn/ca-lam-sang/dieu-tri-ung-thu-phoi-khong-te-bao-nho-bang-thuoc-dieu-tri-dich-tai-trung-tam-y-hoc-hat-nhan-va-ung-buou-benh-vien-bach-mai-1256.html